1 giạ lúa bao nhiêu kg, đổi giạ, dạ sang kg, cân – Hướng dẫn chuyển đổi

5/5 - (25 bình chọn)

Đổi 1 tạ thóc bao nhiêu kg , đổi giạ, dạ sang kg, cân, cách phân biệt giạ lúa, giạ gạo như thế nào chính xác nhất, để giúp bạn đọc có thể giải đáp được vấn đề này trong phạm vi bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn bạn đọc cách chuyển đổi 1 giạ lúa bằng bao nhiêu kg, cân hãy tham khảo với DVM nhé.

1 giạ lúa bằng bao nhiêu kg, đổi giạ, dạ sang kg, cân. Nếu như ở miền Bắc hay gọi là một cân thóc, 1 kg thóc, thì ở miền Tây Nam Bộ người dân ở đây thường hay họi là 1 giạ thóc, 1 giạ lúa.

1 giạ lúa bao nhiêu kg

1 giạ lúa bằng bao nhiêu kg, đổi giạ, dạ sang kg, cân ?

Theo quy ước chung 1 giạ lúa sẽ ước tính bằng từ 20 đến 22 kg.

Bên cạnh đó, người dân Việt Nam đong lúa bằng thùng 20 lít. 1 thùng đó được quy ước là 1 dạ lúa. Đơn vị giạ này được bắt nguồn từ thời Pháp thuộc để sử dụng cho vài mặt hàng.

Tùy từng vùng miền sẽ có những quy ước những quy định về tên gọi khác nhau tuy nhiên ý nghĩa và giá trị vẫn tương đồng với nhau. Thời phong kiến ở nước ta đều có quy chuẩn cho các đơn vị và dụng cụ đo lường, nhưng dân gian vẫn dùng theo cách riêng của mình và mỗi nơi mỗi khác, chỉ có lúc thu nạp thuế khóa mới sử dụng hệ thống đong lường của nhà nước.

Khi người Pháp chiếm Việt Nam, nhận thấy sự phức tạp trong phương thức đo lường này, họ muốn thay bằng hệ đo lường tương đối hiện đại, nhưng người dân đã quen dùng cách đo lường cũ. Do vậy họ đặt ra những quy định thống nhất trong việc quy đổi. Ví dụ, 1 giạ lúa ở Nam bộ có giá trị khác nhau ở các địa phương: 35 lít (Mỹ Tho), 38,27 lít (Chợ Lớn), 39,71 lít (Sài Gòn), một số nơi khác thì 42 lít…

Ngày 24.12.1863, Soái phủ Nam Kỳ ra nghị định thống nhất 1 giạ là 40 lít (Nguyễn Đình Đầu, Tạp ghi Việt sử địa). Theo Lịch Annam thông dụng trong Nam Kỳ (1899), chính phủ Pháp ra nghị định ngày 11.02.1898 quy định về việc đong lường ở Nam Kỳ, bắt đầu từ ngày 1.7.1898, ở Nam Kỳ, đều phải dùng đồ đo lường: loại 1 lít, 5 lít, 10 lít, 20 lít, vuông 40 lít.

Các dụng cụ đo lường này làm bằng sắt trắng, có hai quai, giống mẫu để tại phòng ba dinh Hiệp lý, chiều cao và đường kính bằng nhau. Người bán ở chợ phải mua một bộ đầy đủ, nếu trễ một tháng và thiếu một món đồ đo lường thì bị phạt 100 đồng. Mỗi năm đều kiểm sát một lần và đóng dấu kiểm tra.

Dần dần về sau, các phép cân, đong, đo, đếm mới quy về hệ mét, lít và kilôgam như hiện nay. Đặc biệt, ở Nam bộ, hệ đo lường trong dân gian khá phong phú và phức tạp với nhiều kiểu thức khác nhau.

Chuyện cân

Các đơn vị trọng lượng dùng trong mua bán phổ biến là gram, kg, tùy túi tiền, nhu cầu của người mua. Có thể đi chợ mua vài trăm gram thịt, cá, đậu, dừa, bánh, kẹo, trái cây… cho đến vài kg gạo, nếp, đậu, thịt…

Các loại trái cây có hình dáng nhỏ như chôm chôm, bòn bòn, dâu… hoặc loại mắc tiền như sầu riêng xưa nay vẫn dùng kg để mua bán. Yến bằng 10kg thường được áp dụng để cân các loại củ: khoai lang, khoai môn, khoai mì,… Có nơi, yến chỉ có 6kg (theo Trần Minh Thương).

Tạ bằng 100kg = 10 yến, được tính với hàng hóa có số lượng nhiều như gạo, khoai, bắp, heo…

Tạ ta = 100 cân = 60kg, dùng trong mua bán khoai lang, khoai mì… Nhưng 1 tạ heo thì phải đủ 100kg.

Tấn bằng 1.000kg, cũng dùng trong mua bán lớn.

Cân dùng trong mua bán có nhiều loại như cân xách, cân dĩa, cân đồng hồ… Cân tay (cân xách, cân đòn) có gắn móc hoặc dĩa một đầu để treo, đặt hàng hóa. Phía trên có khoen sắt tròn để xách.

Khi cân xách khoen sắt tròn lên và xê dịch quả cân trên đòn cân có khắc độ cho tới khi cân bằng, đọc con số trên đòn cân để biết trọng lượng. Thường dùng để cân những món đồ có trọng lượng nhỏ dưới 2kg. Khi thu mua heo, thương lái dùng loại cân lớn, có thể thọc cây vào khoen sắt cho hai người khiêng, để cân con heo nặng đến 300kg.

Cân dĩa cũng theo quy tắc “cân bằng” giữa dĩa để cục cân và dĩa để món đồ. Có các loại cục cân bằng sắt: 50g, 100g, 200g, 500g, 1kg, 5kg. Một số người bán còn thay thế các loại cục cân có trọng lượng nhỏ 50g, 100g bằng bó đinh lớn có trọng lượng tương đương, nhưng độ chính xác sẽ không bằng cục cân. Ngày nay, loại cân này đã rất hiếm ở các chợ, hầu như không còn dùng.

Cân tiểu ly là loại cân nhỏ, nhạy và chính xác để cân vàng bạc, quý kim, dược liệu đắt tiền. Cân có một đòn nằm ngang treo thòng theo hai dĩa nhỏ ở hai đầu. Đơn vị đo là lượng (lạng, “cây”) bằng 37,5g, chỉ bằng bằng 1/10 lượng (“khoẻn”), phân bằng 1/10 chỉ.

Cân ngũ cốc cấu tạo gọn, phần đế nặng. Giữa đế cân là một trục thăng bằng, có vạch và kim thăng bằng. Một bên có giá đỡ để dĩa cân dạng hình bầu dục, hai đầu đĩa thuôn nhọn thuận tiện cho việc xúc các loại hạt, ngũ cốc.

Cân bàn để cân các vật nặng, cồng kềnh, như lúa gạo, nông sản… Khi học, bạn cũng sẽ được làm quen với đơn vị tấn, và để biết 1 tấn bằng bao
nhiêu kg, bạn theo dõi bài viết 1 tấn bằng bao nhiêu kg tại đây.

Nội dung bên trên là nội dung hữu ích hướng dẫn quy đổi 1 giạ lúa bằng bao nhiêu kg, đổi giạ, dạ sang kg, cân DVM còn chia sẻ tới bạn đọc

(Ảnh: Internet – Nguồn tổng hợp)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *